1. Quốc hội khóa XIV thông qua Luật Bảo vệ môi trường sửa đổi: Bước tiến mới đáp ứng yêu cầu thực tiễn phát triển đất nước. Lần đầu tiên, cộng đồng dân cư được quy định là một chủ thể trong công tác bảo vệ môi trường; tăng cường tham vấn và phát huy vai trò giám sát, phản biện của cộng đồng dân cư khi tham gia các hoạt động bảo vệ môi trường; quy định kiểm toán môi trường; thay đổi phương thức quản lý môi trường đối với dự án đầu tư theo các tiêu chí môi trường; kiểm soát dự án có nguy cơ tác động xấu đến môi trường mức độ cao; giải pháp bảo vệ các thành phần môi trường, nhất là môi trường không khí, môi trường nước; thúc đẩy phân loại rác thải tại nguồn; quy định cách thức quản lý, ứng xử với chất thải để thúc đẩy kinh tế tuần hoàn; quy định ứng phó biến đổi khí hậu, phát triển thị trường các-bon trong nước; bảo vệ di sản thiên nhiên phù hợp pháp luật quốc tế; tạo lập chính sách phát triển các mô hình tăng trưởng kinh tế bền vững, thúc đẩy kinh tế tuần hoàn, phục hồi và phát triển nguồn vốn tự nhiên. Cũng trong năm 2020, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành các chính sách, giải pháp tăng cường công tác bảo vệ môi trường như Chỉ thị số 33/CT-TTg về tăng cường quản lý, tái sử dụng, tái chế, xử lý và giảm thiểu chất thải nhựa; Chỉ thị số 41/CT-TTg về một số giải pháp cấp bách tăng cường quản lý chất thải rắn; Chỉ thị số 42/CT-TTg về việc tăng cường công tác quản lý, kiểm soát loài ngoại lai xâm hại…
Các vị Đại biểu Quốc hội bấm nút thông qua Luật Bảo vệ môi trường (sửa đổi)
2. Năm thiên tai bất thường, cực đoan nhất trong lịch sử ở cả 3 miền đất nước. Ngay giờ đầu, ngày đầu Tết Nguyên đán 2020, mưa đá, dông lốc đã trút xuống dữ dội ở nhiều tỉnh thành miền Bắc. Mùa khô năm 2020 thiếu hụt nguồn nước nghiêm trọng ở đồng bằng sông Cửu Long, xâm nhập mặn xảy ra sớm, lấn sâu và kéo dài nhiều ngày đã vượt năm hạn mặn khốc liệt kỷ lục được ghi nhận (năm 2016). Mùa mưa, các tỉnh miền Trung phải hứng chịu chuỗi đa thiên tai liên tiếp và dồn dập. Trong vòng 42 ngày chịu ảnh hưởng trực tiếp của 06 cơn bão và 01 cơn áp thấp nhiệt đới, trong đó cơn bão số 9 là một trong hai cơn bão có cường độ mạnh nhất trong vòng 20 năm trở lại đây; mưa lớn kéo dài với tổng lượng mưa phổ biến cao hơn gấp 3 - 5,5 lần so với trung bình nhiều năm, nhiều điểm vượt giá trị lịch sử. Lũ lớn xảy ra hầu khắp các sông trên toàn quốc, đỉnh lũ phổ biến vượt mức báo động 3 từ 0,5 - 2,0m, nhiều sông vượt mức lũ lịch sử; ngập lụt sâu diện rộng và kéo dài nhiều ngày. Đặc biệt, bão, mưa lũ, sạt lở đất diễn ra nghiêm trọng ở miền Trung gây thiệt hại lớn về người, tài sản, ảnh hưởng nặng nề đến đời sống và sản xuất của hàng triệu người dân ở khu vực này.
Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc trực tiếp đến Trung tâm Điều hành tác nghiệp Khí tượng thủy văn, Tổng cục Khí tượng Thủy văn (Bộ TN&MT) chỉ đạo về công tác dự báo bão số 9
Ngành Khí tượng thủy văn cả nước luôn nỗ lực trong công tác quan trắc dự báo khí tượng thủy văn; tăng cường ứng dụng khoa học và công nghệ, hợp tác quốc tế, chủ động dự báo, cảnh báo sớm với độ tin cậy cao; hỗ trợ tích cực, kịp thời, hiệu quả công tác phòng, chống, giảm thiểu tối đa thiệt hại do đa thiên tai gây ra.
Năm 2020 là dịp kỷ niệm 75 năm Ngày truyền thống Ngành Khí tượng thủy văn (03/10/1945 - 03/10/2020), được Tổng Bí thư, Chủ tịch Nước gửi Thư chúc mừng và khen thưởng Huân chương Hồ Chí Minh lần thứ hai.
Thay mặt Lãnh đạo Đảng và Nhà nước, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc trao Huân chương Hồ Chí Minh lần thứ hai cho Tổng cục KTTV.
3. Tích hợp, vận hành Chính phủ điện tử, hoàn thành vượt mức các chỉ tiêu cung cấp dịch vụ công trực tuyến mức độ 4, kết nối Cổng dịch vụ công quốc gia, Hệ thống thông tin báo cáo quốc gia, Trung tâm thông tin chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ với khối lượng thông tin dữ liệu lớn và chất lượng cung ứng dịch vụ công lĩnh vực tài nguyên và môi trường. Trong bối cảnh ảnh hưởng nặng nề bởi đại dịch COVID-19, ngành tài nguyên và môi trường tiếp tục đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, thiết lập cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin đã đảm bảo hiệu quả công tác chỉ đạo điều hành, đặc biệt đã tổ chức hàng loạt hội nghị quốc tế quy mô khu vực và toàn cầu thông qua hình thức trực tuyến. Chỉ số cải cách hành chính (PAR INDEX), chỉ số hài lòng về sự phục vụ hành chính (SIPAS) ngành tài nguyên và môi trường được đánh giá cao.
Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Trần Hồng Hà; Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ Mai Tiến Dũng; Thứ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông Nguyễn Thành Hưng cùng các Thứ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường: Trần Quý Kiên, Lê Công Thành, Lê Minh Ngân tham dự Lễ Khai trương Trung tâm điều hành thông minh của Bộ Tài nguyên và Môi trường
4. Hoàn thành cập nhật Đóng góp do quốc gia tự quyết định (NDC) được quốc tế đánh giá cao. Trong bối cảnh phải ứng phó với nhiều thách thức, đặc biệt do đại dịch COVID-19 và nguồn lực hạn chế, Việt Nam vẫn là một trong số ít quốc gia hoàn thành cập nhật NDC với cam kết tăng mức đóng góp về ứng phó với biến đổi khí hậu. Đồng thời, các nội dung quản lý nhà nước về biến đổi khí hậu đã được luật hóa đầy đủ trong Luật Bảo vệ môi trường sửa đổi năm 2020. Kế hoạch quốc gia thích ứng với biến đổi khí hậu giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 được Thủ tướng Chính phủ ban hành với các nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm theo 7 nhóm lĩnh vực và liên ngành. Việt Nam tích cực tham gia sáng kiến quản lý các chất fluorocacbon và làm mát hiệu quả nhằm bảo vệ tầng ô-dôn, góp phần thực hiện Nghị định thư Montreal về các chất làm suy giảm tầng ô-dôn và NDC cập nhật.
Phát triển các dự án năng lượng tái tạo ở Việt Nam
5. Thành lập Ủy ban chỉ đạo quốc gia về thực hiện Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 do Thủ tướng Chính phủ làm Chủ tịch. Ủy ban giúp Thủ tướng Chính phủ nghiên cứu, chỉ đạo, thống nhất, phối hợp giải quyết những vấn đề quan trọng, liên ngành liên quan đến phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam. Bên cạnh đó, phê duyệt và tổ chức thực hiện nhiều đề án, kế hoạch, chương trình để cụ thể hóa Nghị quyết số 36-NQ/TW như hợp tác quốc tế về phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030; tăng cường năng lực cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ công tác quản lý tổng hợp và điều tra cơ bản tài nguyên và môi trường biển, hải đảo đến năm 2030. Các chương trình, kế hoạch, đề án xác định mục tiêu, tiêu chí, nhiệm vụ, giải pháp, nguồn lực, lộ trình, góp phần đưa nước ta trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển, phát triển bền vững, thịnh vượng, an ninh và an toàn; phát triển bền vững kinh tế biển gắn liền với bảo đảm quốc phòng, an ninh, giữ vững độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ.
6. Công viên Địa chất Đắk Nông được công nhận gia nhập mạng lưới Công viên Địa chất toàn cầu tại Phiên họp lần thứ 209 Ủy ban Chương trình và Quan hệ quốc tế, Hội đồng chấp hành UNESCO; công bố thành lập Khu bảo tồn thiên nhiên đất ngập nước Thái Thụy, tỉnh Thái Bình và Tam Giang - Cầu Hai, tỉnh Thừa Thiên - Huế. Công viên địa chất Đắk Nông có diện tích 4.760 km² trải dài trên địa phận 6 huyện, thị xã thuộc tỉnh Đắk Nông với 118 điểm di sản địa chất, địa mạo, gần 50 hang động tổng chiều dài hơn 10.000 m, các miệng núi lửa, thác nước; nơi lưu giữ giá trị đặc trưng về đa dạng sinh học, địa chất, địa mạo và là công viên địa chất toàn cầu thứ ba của nước ta được công nhận, tiếp sau Công viên Địa chất toàn cầu Cao nguyên đá Đồng Văn, tỉnh Hà Giang, Công viên Địa chất toàn cầu Non nước Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng.
Công viên địa chất Đắk Nông.
Khu bảo tồn thiên nhiên đất ngập nước Thái Thụy, tỉnh Thái Bình và Tam Giang - Cầu Hai, tỉnh Thừa Thiên - Huế được thành lập theo Luật Đa dạng sinh học; khẳng định cam kết, trách nhiệm của Việt Nam tham gia Công ước Ramsar và Công ước đa dạng sinh học; hài hòa giữa mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, bảo tồn thiên nhiên, đa dạng sinh học, bảo vệ môi trường trước các áp lực phát triển và tác động của biến đổi khí hậu; cơ sở khoa học, thực tiễn để đánh giá, tổ chức quy hoạch, phát triển, quản lý, sử dụng các khu bảo tồn thiên nhiên nước ta thời gian tới.
Khu bảo tồn thiên nhiên đất ngập nước Thái Thụy, tỉnh Thái Bình
7. Diễn đàn Kinh tế thế giới (WEF) và Bộ Tài nguyên và Môi trường ký kết khởi động Chương trình Đối tác hành động quốc gia về nhựa và Dự án Giảm thiểu rác thải nhựa đại dương; thực hiện các chính sách của Việt Nam chung tay cộng đồng quốc tế giải quyết vấn đề ô nhiễm nhựa, ô nhiễm nhựa đại dương đang được thế giới quan tâm. Trong bối cảnh hợp tác quốc tế trên toàn cầu bị ảnh hưởng nặng nề bởi đại dịch COVID-19, ngành tài nguyên và môi trường đã tích cực, chủ động đẩy mạnh hội nhập quốc tế và hợp tác quốc tế, chủ trì tổ chức và tham gia nhiều hội nghị khu vực và quốc tế; tạo dấu ấn mạnh mẽ về vai trò, tiếng nói và đóng góp hiệu quả của Việt Nam trong việc chung tay giải quyết các vấn đề khu vực và toàn cầu về tài nguyên, môi trường và biến đổi khí hậu. Hàng loạt sự kiện hợp tác quốc tế đa phương và song phương được tổ chức thành công, như: Lễ khởi động Chương trình Đối tác hành động quốc gia về nhựa và Dự án Giảm thiểu rác thải nhựa đại dương, Kỳ họp Đối thoại chính sách Môi trường Việt Nam - Nhật Bản lần thứ 6, Tuần lễ Giải pháp biển ở cấp Bộ trưởng về rác thải và giải pháp ngăn ngừa ô nhiễm nhựa trên biển, Hội nghị cao cấp ASEAN về môi trường lần thứ 31, Hội nghị Bộ trưởng Môi trường G20, Hội thảo khoa học quốc tế về Biển Đông...
Phó Thủ tướng Trịnh Đình Dũng, lãnh đạo Bộ TN&MT cùng đại diện các đối tác.
8. Hoàn thành bộ bản đồ địa hình biên giới trên đất liền Việt Nam - Campuchia tỷ lệ 1:25.000, thể hiện đầy đủ kết quả phân giới cắm mốc với 2.047 mốc quốc giới bao gồm mốc chính, mốc phụ, cọc dấu để bàn giao cho phía Campuchia và các bộ, ngành của Việt Nam. Việc hai bên hoàn thành công tác giao nhận bộ bản đồ địa hình biên giới Việt Nam – Campuchia là cơ sở quan trọng để tổ chức Lễ trao đổi Văn kiện phê chuẩn Hiệp ước bổ sung Hiệp ước hoạch định biên giới quốc gia năm 1985, Hiệp ước bổ sung năm 2005 và Nghị định thư Phân giới cắm mốc biên giới đất liền giữa hai nước được ký năm 2019 có hiệu lực. Qua đó, phục vụ hiệu quả công tác quản lý biên giới lãnh thổ trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, lợi ích chính đáng của nhau, bình đẳng, hợp tác cùng phát triển, phù hợp với luật pháp và thực tiễn quốc tế.
Lễ bàn giao bản đồ địa hình biên giới Việt Nam-Campuchia tỷ lệ 1/25.000
9. Hoàn thành giai đoạn I dự án Chính phủ “Điều tra tìm kiếm nguồn nước dưới đất tại các vùng núi cao, vùng khan hiếm nước”, đã thi công 454 công trình, đủ điều kiện xây dựng 189 trạm cấp nước sinh hoạt tập trung thuộc 36 tỉnh, lưu lượng khai thác công trình dự báo trên phạm vi các vùng điều tra đạt khoảng 104.911 m3/ngày, có thể cung cấp cho 1,05 triệu người dân với tiêu chuẩn sử dụng nước 100 l/người/ngày. Đồng thời, mùa khô năm 2020 đã kịp thời bàn giao 13 cụm công trình đảm bảo tiêu chuẩn, cấp nước sinh hoạt miễn phí tại 9 tỉnh thuộc khu vực trọng điểm đồng bằng sông Cửu Long và Tây Nguyên với tổng công suất xử lý và cung cấp 4.300 m3/ngày cho khoảng 72.000 người sử dụng nước. Qua đó, ứng phó tốt trước tình trạng xâm nhập mặn, hạn hán lịch sử vừa qua; góp phần cung cấp nước sinh hoạt, nâng cao đời sống, thực hiện hiệu quả Chương trình giảm nghèo bền vững cho hàng triệu người dân khu vực nông thôn, miền núi và biên giới; tạo lập cơ sở khoa học và thực tiễn để thực hiện có hiệu quả công tác quy hoạch, các đề án, giải pháp quản lý khai thác, sử dụng bền vững tài nguyên nước và đảm bảo an ninh nguồn nước thời gian tới.
Thi công công trình thuộc Dự án điều tra, tìm kiếm nguồn nước dưới đất ở vùng núi cao, vùng khan hiếm nước
10. Chương trình khoa học và công nghệ cấp quốc gia về ứng phó với biến đổi khí hậu, quản lý tài nguyên và môi trường giai đoạn 2016 - 2020 được tổng kết đánh giá với nhiều đóng góp quan trọng. Nhiều đề tài, công trình đã được đăng ký bảo hộ sở hữu trí tuệ; xuất bản sách chuyên khảo, chuyên ngành; công bố 233 bài báo, trong đó 77 bài báo quốc tế có chỉ số ISI hoặc Scopus, 156 bài báo trên tạp chí khoa học trong nước. Chương trình đã tập hợp, thu hút và phát triển nguồn nhân lực chuyên ngành về ứng phó với biến đổi khí hậu, quản lý tài nguyên và môi trường thông qua việc tăng cường đào tạo thạc sỹ, tiến sỹ; nâng cao năng lực đội ngũ nghiên cứu với 1.844 thạc sỹ, 980 tiến sĩ, 186 phó giáo sư, 38 giáo sư. Các kết quả của Chương trình góp phần nghiên cứu, ứng dụng, cung cấp luận cứ khoa học, công cụ, mô hình tiên tiến, giải pháp, cơ chế chính sách có tính tổng hợp, liên ngành, liên vùng và các nguồn lực, kinh nghiệm quốc tế để phục vụ thực hiện hiệu quả hơn với những thách thức về ứng phó biến đổi khí hậu, quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường của nước. Đây là nguồn lực quan trọng góp phần tăng cường năng lực, giải pháp quản lý và triển khai các chương trình khoa học và công nghệ cấp quốc gia thời gian tới.
Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Trần Hồng Hà và Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Huỳnh Thành Đạt tặng Bằng khen cho các tập thể, cá nhân có thành tích xuất sắc trong Chương trình KH&CN ứng phó biến đổi khí hậu, quản lý tài nguyên và môi trường.
Cũng trong năm 2020, nhiều cá nhân ngành tài nguyên và môi trường được quốc tế vinh danh, như: Tổ chức UNESCO bổ nhiệm PGS.TS Trần Tân Văn đảm nhiệm thành viên Hội đồng Công viên địa chất toàn cầu nhiệm kỳ 2020 - 2024; PGS.TS Hồ Thị Thanh Vân được Tạp chí Asian Scientits xếp hạng 23/100 nhà khoa học tiêu biểu của Châu Á năm 2020 với công trình nghiên cứu khoa học chuyên sâu trong lĩnh vực bảo vệ môi trường, năng lượng tái tạo./.